Giá cà phê hôm nay diễn biến trái chiều, với arabica tiếp tục xu hướng tăng, trong khi robusta lại giảm nhẹ do nguồn cung được bổ sung từ vụ thu hoạch đang diễn ra tại Việt Nam.
Giá cà phê robusta hợp đồng giao kỳ hạn tháng 1 trên sàn London giảm 15 USD, tương đương 0.35%, xuống mức 4206 USD/tấn.
Trên sàn New York, giá cà phê arabica hợp đồng giao kỳ hạn tháng 3 tăng 3.90 cent, tương đương 1.05%, lên mức 376.2 cent/pound.
Giá cà phê robusta tiếp tục chịu áp lực khi Việt Nam bước vào cao điểm thu hoạch niên vụ 2025–2026. Các nhà giao dịch cho biết tiến độ thu hoạch đang được cải thiện sau những chậm trễ do bão lũ, và nguồn cà phê mới đã bắt đầu ra thị trường dù chưa nhiều. Chất lượng hạt được đánh giá ở mức tốt. Trước đó, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam Nguyễn Nam Hải cho biết sản lượng vụ mới dự kiến tăng 10% so với niên vụ trước, giữ nguyên so với dự báo ban đầu.
Trong khi robusta Việt Nam chịu sức ép, giá arabica lại tăng mạnh do nguồn cung từ Brazil thắt chặt. Theo dữ liệu Cecafé công bố ngày 10/12, xuất khẩu cà phê Brazil trong tháng 11 đạt 3,58 triệu bao, giảm 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái và chạm mức thấp nhất kể từ 2021. Xuất khẩu cà phê nhân xanh giảm 27,1% xuống 3,28 triệu bao; riêng arabica giảm 18,3% còn hơn 3 triệu bao. Dù sản lượng robusta của Brazil đạt kỷ lục, lượng xuất khẩu loại này lại rơi mạnh 67,9% xuống 259.323 bao do nhu cầu nội địa tăng cao. Xuất khẩu cà phê chế biến cũng giảm 21,8%, chủ yếu là cà phê hòa tan.
Tính chung 5 tháng đầu niên vụ 2025–2026 (tháng 7–11), tổng lượng xuất khẩu cà phê của Brazil giảm 21,7% xuống 17,4 triệu bao; trong đó cà phê nhân xanh đạt 15,95 triệu bao (-22%). Arabica chiếm 13,66 triệu bao (-14,2%), còn robusta giảm gần một nửa, xuống 2,28 triệu bao. Xuất khẩu cà phê chế biến đạt 1,488 triệu bao, giảm 17,7%.
Lũy kế 11 tháng đầu năm, Brazil xuất khẩu 36,9 triệu bao, giảm 21% so với cùng kỳ 2024. Cà phê nhân xanh giảm 22,2% còn 33,4 triệu bao, với arabica đạt 29,63 triệu bao (-13,1%) và robusta còn 3,77 triệu bao (-57,1%). Cà phê chế biến giảm nhẹ 7,5% xuống 3,5 triệu bao.
Về thị trường tiêu thụ, Mỹ vẫn là khách hàng lớn nhất của Brazil với 5,04 triệu bao, dù giảm 32,2% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ nhỉnh hơn Đức – thị trường đứng thứ hai với 5 triệu bao (-31%). Italy giữ vị trí thứ ba với 2,9 triệu bao (-21,7%), theo sau là Nhật Bản (+17,5%) và Bỉ (-47,5%). Xuất khẩu sang Tây Ban Nha giảm 25,7% trong khi sang Trung Quốc tăng mạnh 30,4%, vượt mốc 1 triệu bao.
Riêng trong tháng 11, xuất khẩu của Brazil sang Đức tăng 28%, nhưng giảm mạnh sang Mỹ (-62,7%), Bỉ (-46,9%) và Italy (-38,8%). Nhật Bản vẫn duy trì đà tăng 9,2%.
Chủ tịch Cecafé Márcio Ferreira nhận định mức giảm xuất khẩu là điều đã được dự báo trước, do sản lượng năm nay thấp hơn và năm ngoái đạt kỷ lục. Ông cũng cho biết các mức thuế của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump – áp dụng trong hơn bốn tháng với hiệu lực hồi tố – đã khiến xuất khẩu sang Mỹ giảm hơn 1,6 triệu bao. Sau khi các mức thuế áp lên arabica, robusta và cà phê rang được gỡ bỏ, thương mại giữa hai nước đã bắt đầu phục hồi, dự kiến phản ánh vào số liệu từ tháng 12. Tuy nhiên, cà phê hòa tan – chiếm khoảng 10% xuất khẩu sang Mỹ – vẫn chịu thuế 50%, và ngành sẽ tiếp tục vận động để được miễn thuế mặt hàng này.
Ngoài ra, khó khăn logistics vẫn là rào cản lớn: chỉ riêng tháng 10 đã có 681.590 bao cà phê Brazil không thể xuất khẩu do tắc nghẽn chuỗi vận chuyển.
Giá cà phê trong nước hôm nay giảm, dao động trong khoảng 100,500 – 101,500 đồng/kg.
| Giá
(Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi | |
| Gia Lai | 100,700 | -600 |
| Đắk Lắk | 101,000 | -800 |
| Lâm Đồng | 100,500 | -800 |
| Đắk Nông | 101,200 | -800 |



